Bài đăng

Phạm Văn Bảy (Hùng Cường)

            Ông Phạm Văn Bảy , tên thường dùng là Nguyễn Hùng Cường, sinh năm 1951, quê quán làng Long Hưng, tổng An Phong, quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Long Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Sinh ra và lớn lên ở vùng căn cứ kháng chiến. Tuy gia đình nghèo nhưng có nhiều đóng góp cho cách mạng, nhất là nuôi chứa cán bộ, bộ đội nên Hùng Cường sớm giác ngộ cách mạng. Nhập ngũ tháng 3/1969, ông được phân công vào đơn vị Địa phương quân huyện. Thời gian ở bộ đội chỉ có 5 tháng, ông đã tham gia chống càn 24 trận, đánh phục kích và công đồn 5 trận, trực tiếp bắn rớt 2 máy bay, bắn bị thương 1 chiếc, diệt hơn 50 tên địch. Nổi bật có các trận: - 08 giờ sáng ngày 24/3/1969 tại rạch Bà Năm, xã Long Hưng, tiểu đội của ông được giao nhiệm vụ phục kích đánh một đại đội địch. Cả tiểu đội chờ địch đến thật gần mới nổ súng. Riêng ông dùng lựu đạn tấn công làm chết 3 tên tại chỗ, chỉ cách công sự 5m. Bị đòn bất ngờ, quân địch rối loạn đội hình. Chớp t...

Đỗ Công Tường

            Vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, hòa trong đoàn lưu dân Quảng Nam, Bình Định vào Nam khai hoang lập nghiệp ở vùng ven Đồng Tháp Mười, gần sông Tiền, có vợ chồng ông Đỗ Công Tường. Ông Đỗ Công Tường gốc người miền Trung, là con ông Đỗ Văn Văn, vào Nam dưới thời chúa Nguyễn, ban đầu định cư ở vàm Rạch Chanh. Thời đó, vùng này còn hoang vu có tên là rừng Sáu Võ. Ông Văn sinh được hai con trai là Đỗ Công Tường, Đỗ Văn Thoại và bốn người con gái. Ông Đỗ Công Tường có tên tục là Lãnh chưa rõ sinh năm nào, chỉ còn biết khoảng năm 1817, dưới thời Gia Long, ông cùng vợ đến khai khẩn vạt đất ven bờ rạch Thầy Khâm. Thấy đất tốt, ông bà trồng quýt. Sở đất ở vị trí gần vàm, nơi rạch Thầy Khâm đổ ra sông Con (sau gọi là sông Cao Lãnh), nên bà con trong làng mang thổ sản ra đây buôn bán, lâu ngày thành chợ và gọi nôm na là chợ Vườn Quýt. Cả hai ông bà đều có lòng thương người, thường cưu mang, giúp đỡ người khốn khó, riêng ông tính tình cương trực, sẵ...

Võ Văn Trị (Mười Đồng)

          Ông Võ Văn Trị , tên thường dùng Mười Đồng, sinh năm 1928, quê làng Hoà An , quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Ông tham gia cách mạng từ tháng Tám năm 1945, trong lực lượng giành chính quyền ở làng Hoà An và quận Cao Lãnh. Khi thành lập các đoàn thể cứu quốc, ông là Đoàn trưởng Thanh niên cứu quốc xã Hoà An. Tháng 3/1947, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) và cuối năm 1947, ông được bầu vào Ban Chấp hành Thanh niên cứu quốc huyện Cao Lãnh. Tháng 6/1948, ông là Huyện uỷ viên Huyện uỷ Cao Lãnh và được rút lên huyện, là thành viên trong Ban Xây dựng Đồng Tháp Mười. Năm 1949, ông được bầu vào Ban Thường vụ Huyện uỷ phụ trách hai đoàn kiểm tra công tác đảng, quân, chánh khu vực tổng An Tịnh (vùng A gồm các xã: Hoà An, Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây, Tân Tịch, Tịnh Thới), tổng Phong Nẩm (vùng B gồm các xã: Mỹ Thọ, Mỹ Hội, Mỹ Xương, Bình Hàng Trung, Bình Hà...

Nguyễn Minh Trí

Ông Nguyễn Minh Trí , sinh năm 1946, quê xã An Bình, huyện Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp). Lúc hy sinh là cán bộ trung đội, xạ thủ B.41, Tiểu đoàn 502. Sinh ra trong gia đình cách mạng, ông xin vào bộ đội chiến đấu. Một tuổi quân, Trí tham gia 22 trận đánh và tiến bộ rất nhanh. Rạng sáng ngày 04/12/1967, Mỹ dùng chiến thuật Hạm đội nhỏ trên sông, đưa hàng trăm tàu chiến mở trận càn quét lớn theo sông Rạch Ruộng vào Đồng Tháp Mười. Đoàn tàu chạy qua trận địa ta mai phục, đến khoá đầu trong thì ta nổ súng. Khẩu B.41 đã lắp đạn đặt trên vai, ông siết cò phóng viên đạn B.41 vào chiếc tàu vừa đến ngang công sự mình, chiếc tàu bốc cháy, chìm xuống nước. Toàn trận địa nổ súng, tàu Mỹ tiếp tục tiến vào, chiếc này vừa chìm, chiếc khác vượt lên, ông bắn viên đạn thứ hai làm một chiếc tàu nữa bốc cháy. Đạn cối, đại liên… từ các tàu địch bắn xối xả lên hai bờ, cùng với máy bay phản lực ném bom, máy bay trực thăng phóng rốc-kết, pháo từ chiến hạm ngoài sông Cửu Long bắn vô cấp tập,...

Nguyễn Tú

Ở xã An Bình (Cao Lãnh), có con rạch mang tên ông Tú đổ nước vào rạch Cái Côn (An Bình) chảy ra sông Cái Sao Thượng và dưới dốc cầu Đình Trung có một bia bằng đá được dân gian gọi là bia Tiền hiền làng Mỹ Trà hoặc bia Ông Tú. Đó là một vài di tích còn sót lại, lưu dấu công lao khai hoang, lập ấp của ông Nguyễn Tú, một nhân vật khai hoang tiền phong ở Đồng Tháp. Ông Nguyễn Tú , người thôn Bả Canh, xã Đập Đá, phủ Hoài Nhơn, trấn Bình Định, nguyên là tuỳ tướng của nghĩa quân Tây Sơn trước đây. Khi nhà Tây Sơn sụp đổ, để tránh sự trả thù của nhà Nguyễn, ông cùng vợ trốn vào Nam lập nghiệp. Thuở ấy, vùng Mỹ Trà, An Bình còn nhiều nơi là rừng rậm, đầy thú dữ. Ông hô hào những người đi khẩn hoang cùng nhau phá rừng, cất nhà, làm ruộng. Năm nọ, thú loạn rừng tràn ra bờ rạch Cái Sao phá hoại mùa màng, gia súc, thậm chí còn bắt người ăn thịt. Bà Vại nhà gần rạch Cái Sao, vào lúc trời chạng vạng, ngồi rửa chén cạnh bờ sông bị cọp vồ mất xác. Những việc đó làm cho mọi người hoang mang lo sợ, côn...

Lê Văn Sao

Ông Lê Văn Sao sinh năm 1890, là con thứ ba của ông Lê Văn Đáng ở Hòa An, Cao Lãnh (nay là xã Hoà An, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Lúc nhỏ học trường Tiểu học Pháp Việt (cấp sơ học) ở làng Mỹ Trà.  Năm 17 tuổi, ông cùng cha xuất dương qua ngã Xiêm La (Thái Lan) đến Trung Quốc rồi sang Nhật. Tại đây, ông theo học Trường Đông Á Đồng Văn. Năm 1908, đại bộ phận du học sinh trong phong trào bị trục xuất về nước, một số ít còn lại trốn sang Trung Quốc, trong đó có ông.  Sau một thời gian ở Trung Quốc, Lê Văn Sao xin được vào làm thủy thủ trên tàu S/S Ville d'Oran chạy tuyến Marseille sang các nước Viễn Đông. Ông đến Pháp vào khoảng năm 1915, liên hệ với các Việt kiều yêu nước có quan hệ với nhóm Phan Châu Trinh.  Năm 1919, ông gia nhập hội những người Việt Nam yêu nước của Nguyễn Ái Quốc. Là người có nhiều quyết tâm và nhiệt tình trong mọi hoạt động nên ông được Hội giao nhiều trọng trách và luôn thấy xuất hiện bên cạnh Nguyễn Ái Quốc trong các báo cáo của mật thám....

Võ Văn Phát (Võ Phát, Hai Đen, Tư Võ)

Ông Võ Văn Phát tên khai sinh là Võ Minh Chiếu (bí danh: Võ Phát, Hai Đen, Tư Võ), sinh ngày 02/3/1918, tại xã Mỹ An Hưng, tổng An Thạnh Thượng, huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Mỹ An Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Cha ông là Võ Văn Sùng (1887-1965), nguyên Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tổng An Thạnh Thượng (1945). Xuất thân trong gia đình khá giả, lúc nhỏ ông học văn hóa ở trường làng đến lớp Sơ đẳng (cours Élementaire). Sau đó, ông theo anh hai là Võ Văn Đình (bí danh Vũ Đình, nguyên hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đảng viên năm 1930) lên Sài Gòn làm công nhật cho một hãng xe đò tư nhân. Được sự dẫn dắt của anh, ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1936.  Từ năm 1936 đến 1937, ông tham gia phong trào Đông Dương Đại hội của Mặt trận Dân chủ tại làng Mỹ Luông (Long Xuyên), làm liên lạc, bảo vệ cán bộ, liên hệ với các đồng chí Ung Văn Khiêm, Phạm Hữu Lầu (Cao Lãnh)...