Võ Văn Phát (Võ Phát, Hai Đen, Tư Võ)
Ông Võ Văn Phát tên khai sinh là Võ Minh Chiếu (bí danh: Võ Phát, Hai Đen, Tư Võ), sinh ngày 02/3/1918, tại xã Mỹ An Hưng, tổng An Thạnh Thượng, huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Mỹ An Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Cha ông là Võ Văn Sùng (1887-1965), nguyên Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tổng An Thạnh Thượng (1945).
Xuất thân trong gia đình khá giả, lúc nhỏ ông học văn hóa ở trường làng đến lớp Sơ đẳng (cours Élementaire). Sau đó, ông theo anh hai là Võ Văn Đình (bí danh Vũ Đình, nguyên hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đảng viên năm 1930) lên Sài Gòn làm công nhật cho một hãng xe đò tư nhân. Được sự dẫn dắt của anh, ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1936.
Từ năm 1936 đến 1937, ông tham gia phong trào Đông Dương Đại hội của Mặt trận Dân chủ tại làng Mỹ Luông (Long Xuyên), làm liên lạc, bảo vệ cán bộ, liên hệ với các đồng chí Ung Văn Khiêm, Phạm Hữu Lầu (Cao Lãnh), Nguyễn Văn Nhung (Chợ Mới).
Năm 1938 đến 1939, ông công tác trong tổ chức Thanh niên Dân chủ, cứu tế tù chính trị khám Phú Mỹ và khám Thị Nghè (Sài Gòn).
Năm 1940, ông về quê làm thợ máy cho nhà máy xay lúa của cha, tại vàm rạch Đất Sét.
Năm 1944, ông hoạt động công khai trong phong trào thể thao Ducuroy, tham gia bí mật phong trào Nông dân Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương ở Mỹ An Hưng, chuẩn bị giành chính quyền.
Ngày 10 tháng 4 năm 1945, ông được kết nạp Đảng tại Chi bộ Mỹ An Hưng (chính thức ngày 15/7/1945) và được cử làm Bí thư Chi bộ xã Mỹ An Hưng. Ông thoát ly gia đình sau thắng lợi của sự kiện bắc Cao Lãnh ngày 23/8/1945.
Từ tháng 8/1945 đến 12/1947, ông lãnh đạo một cánh liên xã Mỹ An Hưng-Tân Mỹ giành chính quyền ở thị xã Sa Đéc, sau đó được phân công xây dựng tổ chức chính quyền các xã ở quận Lai Vung (Sa Đéc). Từ tháng 10/1945, ông là Tỉnh uỷ viên, Bí thư Quận uỷ Lai Vung.
Tháng 01/1948 đến 9/1949, ông làm Bí thư Thị xã uỷ thị xã Sa Đéc. Tháng 9/1949, ông được bầu Bí thư Tỉnh uỷ Sa Đéc. Tháng 6/1951, tỉnh Long Châu Sa thành lập, từ tháng 11/1951 đến tháng 12/1952, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ Long Châu Sa, kiêm Chính trị viên Tỉnh đội Long Châu Sa, Khu uỷ viên dự khuyết Khu 8. Sau đó, ông được rút lên Khu 8.
Năm 1954, sau Hiệp định Genève, ông được phân công ở lại miền Nam, phụ trách Phó Ban Tài Chính Xứ uỷ Nam Bộ do đồng chí Phạm Hữu Lầu, Thường vụ Xứ uỷ làm Trưởng ban. Trong thời gian chuyển quân tập kết, thực hiện chủ trương của Xứ uỷ Nam Bộ, ông tổ chức việc đổi tiền Cụ Hồ thành bạc Đông Dương cho dân. Đồng thời, tổ chức mua gạo, xe đạp, phụ tùng… gởi theo chuyến tàu chót ra Bắc bán, lấy tiền chi cho Cách mạng miền Nam nhiều năm sau.
Từ năm 1954 đến 1958, ông lên Sài Gòn ở xóm Cây Quéo, đóng vai thợ sửa chữa nhà. Ông cùng ông Tư Lầu tự thiết kế và xây ngôi biệt thự tại đường Nguyễn Du - Gò Vấp, có hầm chứa lương thực và đường ngầm thoát hiểm. Toàn bộ thợ xây là đảng viên được tuyển chọn (trong đó ông Tư Lầu đóng vai thợ sơn). Đồng chí Phạm Hữu Lầu đã ở tại đây trong suốt thời gian bám trụ Sài Gòn.
Năm 1958, ông theo cơ quan Xứ uỷ dời lên Phnôm-Pênh (Campuchia). Trên đất Campuchia, ông Nguyễn Văn Linh (Bí thư Xứ uỷ, thay ông Tư Lầu vừa mất) chỉ đạo lập Chi bộ 17 trực thuộc Xứ uỷ, có nhiệm vụ vừa bảo vệ cán bộ vừa tự túc kinh tế, ông là một trong 10 đảng viên Chi bộ 17.
Cuối năm 1959, ông cùng Xứ uỷ về Mã Đà miền Đông Nam Bộ. Năm 1960, ông là Chánh Văn phòng Ban Quân sự Miền (C-99) và đến giữa năm 1960, là Phó Văn phòng Trung ương Cục miền Nam.
Từ năm 1961, ông được điều động làm Cục phó Cục Hậu cần Bộ Tư lệnh Miền B2, quân hàm Đại tá (1964). Năm 1966, ông được giao kiêm trưởng Đoàn 17 (Cục Hậu cần Miền) làm nhiệm vụ xây dựng hậu cần tại chỗ, tiếp nhận vũ khí, lương thực… do các nước Xã hội Chủ nghĩa viện trợ qua cảng Sihanoukville (Campuchia). Năm 1970, ông kiêm thêm trưởng Đoàn Hậu cần Khu vực 500, hoạt động địa bàn Bắc Campuchia. Tháng 12/1974 đến 15/3/1975, ông là trưởng đoàn cán bộ Cục Hậu cần Miền ra Hà Nội chuẩn bị kế hoạch bảo đảm hậu cần cho chiến dịch giải phóng miền Nam.
Tháng 12/1975, ông được điều làm Tổng cục trưởng Tổng Cục Lương thực miền Nam.
Tháng 6/1976 đến 1982, ông được bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm, kiêm tổng Giám đốc Tổng Công ty Lương thực miền Nam.
Ngày 01/01/1983, ông nghỉ hưu, ngụ tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 12/02/1989 (ngày Mùng 7 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ), ông từ trần, thọ 71 tuổi, an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh Đồng Tháp.
Ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huy hiệu 40 tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất và nhiều huân, huy chương khác.
Nhận xét
Đăng nhận xét