Nguyễn Thị Lựu
Nguyễn Thị Lựu (1909-1988)
|
Nguyễn Thị Lựu (1909-1988)
Quê quán:
Làng Hòa An, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp)
Tiểu sử:
Bà Nguyễn Thị Lựu, tên thật Đỗ Thị Thưởng, bí danh Thu, Cửu, thường gọi Tám Lựu, sinh ngày 23/9/1909 tại làng Hòa An, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Là người con gái hiếu hạnh, dũng cảm, mưu trí, bà sớm được giác ngộ cách mạng, thoát ly gia đình, đứng vào hàng ngũ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (1928). Qua thành tích hoạt động xuất sắc, bà được kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng vào cuối năm 1929 tại Phong Hoà, CầnThơ.
Đầu năm 1931, trên cương vị Thường vụ Tổng công hội đỏ Xứ uỷ Nam Kỳ, bà bị giặc bắt giam ở bót Pôlô (Chợ Lớn). Trước những trận đòn khóc liệt, man rợ, bà vẫn không chao đảo tinh thần, vững dạ bảo toàn khí tiết Cộng sản.
Đồng chí Nguyễn Văn Hanh, bí danh Nhuận, người yêu của bà, cũng bị bắt giam tại bót Pôlô cùng thời điểm với bà. Toà đại hình đặc biệt Sài Gòn mở phiên xử, kéo dài 7 ngày từ ngày 02 - 09/5/1933, tuyên án bà 5 năm tù giam tại Khám lớn Sài Gòn, đồng chí Nhuận tử hình, hạ xuống chung thân khổ sai, đày đi Côn Đảo.
Năm 1936, bà được trả tự do, mới biết tin người yêu đã hy sinh trong chuyến vượt ngục Côn Đảo cuối năm 1934, cùng với 10 đồng chí, trong đó có Ngô Gia Tự (1908-1934), Bí thư đầu tiên của Xứ uỷ Nam Kỳ.
Trở lại hoạt động, bà tham gia nhóm La Lutte (tranh đấu), phục vụ tại toà soạn La Lutte và được bầu vào Uỷ ban trù bị Đông Dương Đại hội. Đầu năm 1937, bà tiếp tục làm báo L/Avant-Garde (1937), Le Peuple (1937), Dân chúng (1938-1939).
Đầu tháng 9/1939, bà bị thực dân Pháp bắt giam lần thứ 2: ở nhà tù Phú Mỹ (Thị Nghè - Gia Định) từ 1939-1941, trại giam Bà Rá (Biên Hòa) từ 1941-1945.
Nhật đảo chính Pháp, ngày 09/3/1945, bà cùng một số đồng chí ở trại tù Bà Rá vượt ngục về Sài Gòn, tham gia hoạt động, vận động quần chúng ủng hộ Mặt trận Việt Minh lãnh đạo thắng lợi Tổng khởi nghĩa 25/8/1945.
Năm 1946 bà công tác ở Tỉnh uỷ Châu Đốc, tham gia Ban Dân vận thị xã Châu Đốc, gầy dựng phát triển tờ báo “Anh Thư” của Hội Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Châu Đốc. Sau đó, bà giữ các nhiệm vụ: Trưởng ban Phụ Vận Thành uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn (1949); tham gia phong trào bảo vệ hoà bình Sài Gòn - Chợ Lớn, phụ trách Tiểu ban đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève (1954); gia nhập Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ viên Ban Mặt trận Trung ương (1959); Vụ trưởng Vụ quốc tế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1960); Phó Tổng Thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1961); Đại biểu Quốc hội các khóa IV, V, VI.
Sau ngày giải phóng 30/4/1975, bà đảm nhận chức vụ Chủ nhiệm Uỷ ban thống nhất của Quốc hội, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nghỉ hưu tháng 7/1979.
Bà từ trần ngày 11/10/1988, hưởng thọ 79 tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của bà rạng rỡ đôi đàng về cách mạng, về tình yêu, thủy chung, kiên cường, bất khuất.
Tên bà được đặt cho trường trung học cơ sở ở phường 4 và một con đường trong thành phố Cao Lãnh.
Nhận xét
Đăng nhận xét