Phạm Hữu Lầu
Quê quán:
Làng Hòa An, tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là phường 4, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp)
Tiểu sử:
Ông Phạm Hữu Lầu, bí danh Tư Lộ, sinh năm 1906, quê làng Hòa An, tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là phường 4, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Hồi nhỏ, ông Lầu ham học và học giỏi, nhưng gia đình nghèo và cha mất sớm, nên năm 13 tuổi phải nghỉ học đi làm thợ sơn, rồi thợ hớt tóc để có tiền giúp mẹ nuôi 2 em.
Tháng 8/1926, Phạm Hữu Lầu cùng một số bạn trẻ khác tham gia tổ chức lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh ở chợ Cao Lãnh.
Tháng 9/1928, Phạm Hữu Lầu được kết nạp vào tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được bầu làm Tổ trưởng. Tháng 10/1929, ông được kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng, được đề cử vào Ban Chấp hành lâm thời Trung ương An Nam Cộng sản Đảng; sau đó được rút lên Sài Gòn và chỉ định đi “vô sản hóa” ở đề pô xe lửa Dĩ An. Trung tuần tháng 02/1930, ông được đề cử vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giữa năm 1930, ông đi dự hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất ở Hương Cảng. Đến cảng Hải Phòng thì bị mật thám Pháp bắt đưa về nhà lao Hỏa Lò, Hà Nội. Sau đó đưa về Sài Gòn xét xử, kết án tù chung thân, phát lưu và đày ra Côn Đảo.
Năm 1936 mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở nước Pháp đã quyết định ân xá một số lớn chính trị phạm ở Đông Dương, trong đó có Phạm Hữu Lầu. Sau khi ra tù, ông tham gia Xứ uỷ Nam kỳ và hoạt động trong nhóm Dân chúng “Lepeuple” ở Sài Gòn, Cao Lãnh và Rạch Giá.
Đến cuối năm 1939, ông lại bị thực dân Pháp bắt, kết án 5 năm tù và đày đi Côn Đảo. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, ông trở về Sa Đéc, được giao trách nhiệm làm Bí thư Tỉnh uỷ Sa Đéc.
Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược, đánh chiếm Sa Đéc (ngày 25/01/1946), ông lãnh đạo tổ chức các phòng tuyến chiến đấu, ngăn chặn kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch.
Để bảo tồn lực lượng, ông và Tỉnh uỷ quyết định chia lực lượng Quân - Dân - Chánh - Đảng của tỉnh làm 3 bộ phận. Hai bộ phận do ông và Nguyễn Hữu Xuyến chỉ huy rút xuống miền Tây, một bộ phận ở lại bám bên Đồng Tháp Mười tiếp tục lãnh đạo kháng chiến.
Tháng 4/1946, ông cùng bộ phận đi miền Tây trở về. Ông được bầu làm Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh, sau đó là Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Sa Đéc.
Cuối năm 1949, ông được rút lên Khu uỷ Khu VIII, rồi về Ban Đại diện của Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ.
Tháng 5/1951, ông về làm Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Mỹ Tho kiêm Uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Phân liên Khu miền Đông, phụ trách vùng Đồng Tháp Mười.
Tháng 4/1952, ông được phân công làm Uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ phụ trách Công an và Thương binh đến năm 1954. Sau Hiệp định Genève đến giữa năm 1958, ông làm Phó Bí thư Xứ uỷ, rồi Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ đến cuối năm 1959.
Ngày 16/12/1959, ông từ trần tại một bệnh viện trên đất Campuchia do căn bệnh lao phổi.
Năm 1985, lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp tổ chức đưa hài cốt ông về an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh ở thị xã Cao Lãnh (nay là thành phố Cao Lãnh) và quyết định đặt tên Trường Chính trị tỉnh là Trường Phạm Hữu Lầu; đặt tên con đường trước cổng Trường Chính trị tỉnh (phường1, thị xã Sa Đéc) và từ cầu Đúc trong nội ô thành phố Cao Lãnh (phường 4) ra bến phà Cao Lãnh (phường 6) là đường Phạm Hữu Lầu. Tại quận Gò vấp, thành phố Hồ Chí Minh cũng có con đường mang tên ông.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của ông Phạm Hữu Lầu là tấm gương tiêu biểu, trong sáng để lại cho hậu thế.
Nhận xét
Đăng nhận xét