Nguyễn Văn Linh (Thống Linh)


Nguyễn Văn Linh (Thống Linh)

Nguyễn Văn Linh (Thống Linh) (1815-1865)

Tiểu sử:

Ông Nguyễn Văn Linh quê ở thôn Mỹ Ngãi, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (hay thuộc phường 1, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), sinh ra trong một gia đình nông dân, lễ giáo.

Ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra khí phách anh hùng. Trong những cuộc giao du, đàm luận với bạn bè, ông thường biểu tính kiên cường, chính trực, hay bênh vực kẻ yếu, thế cô. Ông thường nói với bạn hữu: “Thà chết vinh hơn sống nhục”. Năm 22 tuổi ông lập gia đình, cuộc sống ấm êm không làm ông xao lãng việc trau dồi văn chương, võ nghệ, chờ có cơ hội giúp dân, giúp nước.

Sau khi triều đình ký hòa ước Nhâm Tuất (1862), nhường 3 tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cho thực dân Pháp, chúng kéo quân đến vùng Cao Lãnh tiến hành công việc bình định chiếm đóng. Lập tức, ông đứng ra qui tụ thanh niên trai tráng trong vùng luyện tập võ nghệ, trang bị vũ khí tự tạo v.v. hình thành đội nghĩa dõng bí mật, ngày đêm rình rập theo dõi hành tung của giặc, hễ có cơ hội là diệt chúng, làm cho giặc hoang mang ngay từ buổi đầu mới chiếm đóng, nhưng với lực lượng nhỏ, vũ khí lại thô sơ, kết quả mang lại không như ông mong muốn.

Giữa năm 1863, Thiên hộ Võ Duy Dương từ Ba Giồng (Cai Lậy) dẫn nghĩa quân vô Đồng Tháp Mười xây dựng đồn lũy, lập căn cứ, chiêu mộ nghĩa sĩ, ông liền đem lực lượng của mình đặt dưới quyền chỉ huy của Thiên hộ và hiến nhiều kế sách cho việc xây dựng, phát triển lực lượng nghĩa quân. Trong giai đoạn xây dựng căn cứ, ông và Đốc Binh Kiều là hai bộ tướng phụ tá đắc lực của Thiên hộ Dương trong việc chiêu mộ nghĩa quân và vận động nhân dân ủng hộ kháng giặc. Vùng hoạt động của nghĩa quân Đồng Tháp Mười ngày một mở rộng, nghĩa quân chủ động tiến công giặc nhiều nơi. Nguyễn Văn Linh được giao thống lĩnh một đạo nghĩa quân phụ trách hoạt động vùng Cao Lãnh, nên trong quân cũng như ngoài dân thường gọi ông là Thống Linh. Hoạt động của ông làm cho giặc pháp trong vùng mất ăn mất ngủ, nhưng chúng không sao đàn áp nổi. Để đối phó, chúng phải sử dụng hai tên tay sai khét tiếng: Cai Lộc (tức Trần Bá Lộc, sau thăng lên Tống đốc) và nhất là quản Khanh (tức Phạm Văn Khanh), vốn là người làng Mỹ Trà có quen biết với Thống Linh trước đây và có thời gian y tham gia lực lượng nghĩa quân. Bọn này thường xuyên rình rập theo dõi hoạt động của ông.

Một hôm trên đường lo việc quân cơ, tiện đường ghé qua thăm gia đình, bị chúng theo dõi, phục kích bắt ông và hai người bạn chiến đấu là Thống Bình và Thống Chiếu tại thôn Phong Mỹ, đem về chợ ông Chánh (tức chợ Mỹ Ngãi sau này) thâm ý dùng tình cảm gia đình để lung lạc lòng yêu nước của ông. Suốt ngày đêm, bọn Lộc - Khanh hết dụ dỗ đến hăm dọa nhưng không lay chuyển được ý chí sắt đá của người anh hùng. Cuối cùng, chúng ra tay hành quyết ông cùng với Thống Bình, Thống Chiếu tại chợ Mỹ Ngãi. Trước khi đầu lìa khỏi cổ, ông vẫn bình tĩnh ngâm hai câu thơ:

            “Rất tiếc thù chung chưa trả đặng,

            Sụt sùi chín suối dễ nào ngôi”!

Khi đầu rời khỏi cổ, mắt ông vẫn trừng trừng nhìn bọn giặc làm nhiều tên khiếp vía.

Để tưởng nhớ công lao và khí phách của những anh hùng vì nước hy sinh, dân làng lập miếu thờ 3 ông: Thống Linh, Thống Bình, Thống Chiếu, nhưng để che mắt giặc, ngôi miếu được ngụy tạo dưới hình thức một ngôi chùa thờ Quan đế thánh quân và nhân dân vẫn quen gọi là chùa Ba Ông. Hậu thế có bài thơ truyền tụng:

            Lịch sử nêu gương cụ Thống Linh,

            Trung can gì vì nước đã quên mình.

            Giận người sống mất suy ra nhục,

            Thương kẻ thác còn nghĩ lại vinh,

            Bao tiếng ngọt ngon lòng chẳng núng.

            Lắm lần hăm dọa chí không kinh,

            Ngâm câu ly, hận cười người phản,

            Quốc vận từ đây phú hậu sinh.

Về ngày mất của ông, theo các tài liệu trước đây là ngày 07/7/1862. Điều này e ra chưa chính xác. Vì ngày 07/7 là ngày giỗ, tức là theo âm lịch; còn năm là năm dương lịch (1862), thì lúc ấy, thực dân Pháp chưa chiếm đóng vùng Cao Lãnh. Đến năm 1863, thực dân Pháp mới chính thức đưa quân đến Cao Lãnh và bằng nghị định này 03/6/1865, chúng mới quyết định thành lập khu thanh tra Cần Lố. Do đó, thời điểm hy sinh của Nguyễn Văn Linh chỉ có thể xảy ra trong khoảng từ 1863 đến 1865. Năm hy sinh của Nguyễn Văn Linh có thể là năm 1865 (theo âm lịch năm Ất Sửu), vì lúc bấy giờ chúng mới thiết lập bộ máy bình định, đàn áp nghĩa quân. Lấy ngày giỗ ông theo âm lịch (07/7 Ất Sửu), thì ngày hy sinh của ông theo dương lịch là 28/8/1865.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phạm Hữu Lầu

Nguyễn Thị Lựu