Bài đăng

Đang hiển thị bài đăng từ 2023

Nguyễn Minh Trí

Ông Nguyễn Minh Trí , sinh năm 1946, quê xã An Bình, huyện Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp). Lúc hy sinh là cán bộ trung đội, xạ thủ B.41, Tiểu đoàn 502. Sinh ra trong gia đình cách mạng, ông xin vào bộ đội chiến đấu. Một tuổi quân, Trí tham gia 22 trận đánh và tiến bộ rất nhanh. Rạng sáng ngày 04/12/1967, Mỹ dùng chiến thuật Hạm đội nhỏ trên sông, đưa hàng trăm tàu chiến mở trận càn quét lớn theo sông Rạch Ruộng vào Đồng Tháp Mười. Đoàn tàu chạy qua trận địa ta mai phục, đến khoá đầu trong thì ta nổ súng. Khẩu B.41 đã lắp đạn đặt trên vai, ông siết cò phóng viên đạn B.41 vào chiếc tàu vừa đến ngang công sự mình, chiếc tàu bốc cháy, chìm xuống nước. Toàn trận địa nổ súng, tàu Mỹ tiếp tục tiến vào, chiếc này vừa chìm, chiếc khác vượt lên, ông bắn viên đạn thứ hai làm một chiếc tàu nữa bốc cháy. Đạn cối, đại liên… từ các tàu địch bắn xối xả lên hai bờ, cùng với máy bay phản lực ném bom, máy bay trực thăng phóng rốc-kết, pháo từ chiến hạm ngoài sông Cửu Long bắn vô cấp tập,...

Nguyễn Tú

Ở xã An Bình (Cao Lãnh), có con rạch mang tên ông Tú đổ nước vào rạch Cái Côn (An Bình) chảy ra sông Cái Sao Thượng và dưới dốc cầu Đình Trung có một bia bằng đá được dân gian gọi là bia Tiền hiền làng Mỹ Trà hoặc bia Ông Tú. Đó là một vài di tích còn sót lại, lưu dấu công lao khai hoang, lập ấp của ông Nguyễn Tú, một nhân vật khai hoang tiền phong ở Đồng Tháp. Ông Nguyễn Tú , người thôn Bả Canh, xã Đập Đá, phủ Hoài Nhơn, trấn Bình Định, nguyên là tuỳ tướng của nghĩa quân Tây Sơn trước đây. Khi nhà Tây Sơn sụp đổ, để tránh sự trả thù của nhà Nguyễn, ông cùng vợ trốn vào Nam lập nghiệp. Thuở ấy, vùng Mỹ Trà, An Bình còn nhiều nơi là rừng rậm, đầy thú dữ. Ông hô hào những người đi khẩn hoang cùng nhau phá rừng, cất nhà, làm ruộng. Năm nọ, thú loạn rừng tràn ra bờ rạch Cái Sao phá hoại mùa màng, gia súc, thậm chí còn bắt người ăn thịt. Bà Vại nhà gần rạch Cái Sao, vào lúc trời chạng vạng, ngồi rửa chén cạnh bờ sông bị cọp vồ mất xác. Những việc đó làm cho mọi người hoang mang lo sợ, côn...

Lê Văn Sao

Ông Lê Văn Sao sinh năm 1890, là con thứ ba của ông Lê Văn Đáng ở Hòa An, Cao Lãnh (nay là xã Hoà An, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Lúc nhỏ học trường Tiểu học Pháp Việt (cấp sơ học) ở làng Mỹ Trà.  Năm 17 tuổi, ông cùng cha xuất dương qua ngã Xiêm La (Thái Lan) đến Trung Quốc rồi sang Nhật. Tại đây, ông theo học Trường Đông Á Đồng Văn. Năm 1908, đại bộ phận du học sinh trong phong trào bị trục xuất về nước, một số ít còn lại trốn sang Trung Quốc, trong đó có ông.  Sau một thời gian ở Trung Quốc, Lê Văn Sao xin được vào làm thủy thủ trên tàu S/S Ville d'Oran chạy tuyến Marseille sang các nước Viễn Đông. Ông đến Pháp vào khoảng năm 1915, liên hệ với các Việt kiều yêu nước có quan hệ với nhóm Phan Châu Trinh.  Năm 1919, ông gia nhập hội những người Việt Nam yêu nước của Nguyễn Ái Quốc. Là người có nhiều quyết tâm và nhiệt tình trong mọi hoạt động nên ông được Hội giao nhiều trọng trách và luôn thấy xuất hiện bên cạnh Nguyễn Ái Quốc trong các báo cáo của mật thám....

Võ Văn Phát (Võ Phát, Hai Đen, Tư Võ)

Ông Võ Văn Phát tên khai sinh là Võ Minh Chiếu (bí danh: Võ Phát, Hai Đen, Tư Võ), sinh ngày 02/3/1918, tại xã Mỹ An Hưng, tổng An Thạnh Thượng, huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Mỹ An Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Cha ông là Võ Văn Sùng (1887-1965), nguyên Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tổng An Thạnh Thượng (1945). Xuất thân trong gia đình khá giả, lúc nhỏ ông học văn hóa ở trường làng đến lớp Sơ đẳng (cours Élementaire). Sau đó, ông theo anh hai là Võ Văn Đình (bí danh Vũ Đình, nguyên hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đảng viên năm 1930) lên Sài Gòn làm công nhật cho một hãng xe đò tư nhân. Được sự dẫn dắt của anh, ông bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1936.  Từ năm 1936 đến 1937, ông tham gia phong trào Đông Dương Đại hội của Mặt trận Dân chủ tại làng Mỹ Luông (Long Xuyên), làm liên lạc, bảo vệ cán bộ, liên hệ với các đồng chí Ung Văn Khiêm, Phạm Hữu Lầu (Cao Lãnh)...

Trần Bá Lê

Ông Trần Bá Lê sinh năm 1850, tại thôn Hoà An, huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang (nay thuộc xã Hoà An, thành phố Cao Lãnh), là con ông Trần Văn Long, một điền chủ ở Cao Lãnh.  Ông Trần Văn Long gốc người miền Trung, lưu lạc vào Nam kiếm sống, do siêng năng làm lụng, tính tình nhân hậu, nên được bà Đỗ Thị Đệ, một đại điền chủ ở Mỹ Trà gả con gái và giúp đỡ trong công việc làm ăn. Từ đó, ông gây dựng, tích luỹ để trở thành một điền chủ có tiếng tăm. Khi thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ (Biên Hoà, Gia Định và Định Tường), ông đã quyên góp nhiều lương thực, sắt, đồng thau để rèn đúc vũ khí cho nghĩa quân chống Pháp. Ông Trần Bá Lê được cử làm Hương cả Nhì trong làng, nên người trong làng thường gọi ông là Cả Nhì Ngưu. Vào những năm 1907, 1908, lúc phong trào Đông Du phát triển, ông là người tài trợ lớn, có tiếng ở vùng Cao Lãnh. Ông bỏ tiền ra đóng ghe, tàu đi Thái Lan, Hồng Kông buôn bán, làm kinh tài cho phong trào. Nội vụ đổ bể, ông bị thực dân Pháp bắt, tịch thu toàn bộ phư...

Nguyễn Văn Bảnh

Ông Nguyễn Văn Bảnh (thường gọi là Già Dền), sinh năm 1927, quê làng Tân Thành, tổng An Phước, quận Hồng Ngự, tỉnh Châu Đốc (nay là xã Tân Thành A, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp), tham gia cách mạng năm 1957. Khi hy sinh là Tiểu đội trưởng du kích xã, đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam.  Từ làm giao liên qua công tác Nông hội, đến năm 1964 ông gia nhập du kích xã. Mùa nước năm 1965, lợi dụng địa hình trống trải, địch nhiều lần dùng thuyền bay càn quét. Theo dõi, nắm được mặt mạnh mặt yếu của loại phương tiện này, ngày 11/8/1965, ông dùng vũ khí tự tạo đánh hư 2 thuyền bay, diệt 4 lính, có 2 lính Mỹ. Ngày 08/7/1967, địch xua 2 tiểu đoàn đánh phá vùng giải phóng Tân Thành. Tổ du kích của ông chỉ có 3 người. Quân địch đông, có pháo và máy bay yểm trợ, nên 2 du kích bỏ trận địa. Chỉ còn một mình, ông vẫn trụ lại đẩy lùi 6 đợt tiến công của địch suốt từ 6 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Địch rút lui, ông bám theo diệt 1 xuồng, làm chết 2, bị thương 1 tên. Trận này, ông Nguyễn Văn Bả...

Phan Văn Bảy

Ông Phan Văn Bảy , sinh ngày 01/01/1910 tại làng Tân Dương, tổng An Phong, quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Tân Dương, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1926, ông trúng tuyển vào trường trung học Cần Thơ (collège de Cần Thơ) với hạng ưu, nên được cấp học bổng. Tại đây, ông tham gia đấu tranh đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, để tang cụ Phan Châu Trinh, đòi cải thiện chế độ học đường nên bị đuổi học. Nhờ gia đình và giáo viên đấu tranh kiến nghị nên được trở lại tiếp tục học, song phải lưu ban. Năm 1927, ông được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, ông càng tích cực tham gia đấu tranh bãi khoá. Để dập tắt phong trào, nhà cầm quyền Pháp quyết định đuổi học 20 học sinh. Riêng Phan Văn Bảy bị cấm không được học bất cứ trường nào ở Nam Kỳ và phải bồi thường gấp đôi tiền chi phí của năm học. Trở về quê Tân Dương, ông tích cực tuyên truyền vận động cách mạng và tìm cách liên hệ với tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Cao Lãnh. Năm 1929, chi hội Việt Nam ...

Nguyễn Văn Bảy (A)

Hình ảnh
Nguyễn Văn Bảy (2 tháng 2 năm 1936 – 22 tháng 9 năm 2019), còn gọi Bảy A, tên khai sinh Nguyễn Văn Hoa, là con thứ bảy trong gia đình. Do người Nam Bộ hay gọi theo thứ tự nên dần cái tên Nguyễn Văn Bảy thành tên chính. Ông sinh tại huyện Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp). Là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, sĩ quan cao cấp của lực lượng Không quân Nhân dân Việt Nam, cấp bậc Đại tá.  Ông nguyên là Phó Tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không – Không quân Việt Nam, là một trong mười chín phi công Việt Nam đạt cấp "Ách" (Aces) trong Chiến tranh Việt Nam, với thành tích lái MiG-17 bắn rơi 7 máy bay các loại của Mỹ. Ông cũng là phi công lái chiếc MiG-17 - loại máy bay bắn rơi nhiều máy bay đối phương nhất trong thời kì chiến tranh Việt Nam. Ông còn được biết đến với câu nói nổi tiếng: "Ở Việt Nam, ra ngõ là gặp anh hùng". Binh nghiệp Khoảng năm 1953, do không chịu lấy vợ theo ý gia đình, ông bỏ theo bộ đội, trở thành du kích khi 17 tuổi. Năm 1954, ông tại...

Lê Văn Đáng

Ông Lê Văn Đáng sinh năm 1864 ở làng Hoà An (nay là phường 4, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), có trình độ Nho học rất khá. Có lúc, ông giữ chức Hương Chánh nhất trong làng nên mọi người thường gọi ông là Chánh nhất Đáng hoặc Chánh Đáng. Năm 1907, hưởng ứng phong trào Đông Du, ông cùng với con là Lê Văn Sao và một đồng chí là Lê Văn Mỹ xuất dương qua ngả Xiêm La (Thái Lan) sang Trung Quốc rồi đến Nhật tích cực tìm phương cứu nước. Năm 1908, Pháp cấu kết với Nhật trục xuất du học sinh Việt Nam, ông bị đưa về Sài Gòn, sau đó bị giải về Vĩnh Long giam hơn một năm. Khi mãn hạn tù, về quê ông vẫn tiếp tục chống Pháp. Mỗi khi địa phương có hoạt động kháng Pháp nổi lên là ông bị giặc bắt giam, trước sau tất cả 9 lần. Con ông là Lê Văn Sao sau một thời gian ở Trung Quốc đã sang Pháp và hoạt động tích cực trong Hội những người Việt Nam yêu nước của Nguyễn Ái Quốc. Trong khi đó, tại quê nhà, ông và cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã trở thành bạn tâm giao, thường xuyên trao đổi, giáo dục về nỗi ...