Lê Văn Cử

        Ông Lê Văn Cử sinh năm 1909 tại làng Hoà An (rạch Cái Tôm), tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc phường 4, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp), trong một gia đình Nho học yêu nước. Thân phụ là Lê Văn Lịch, em ruột cụ Lê Văn Đáng (cha ruột của ông Lê Văn Sao, bạn thân Bác Hồ, cùng hoạt động cách mạng ở Pháp).

        Là con trai út (thứ 13) trong gia đình đông con, ông vẫn được thân sinh cho theo học trường Tiểu học Cao Lãnh, trường Pétrus Ký (Sài Gòn), đỗ bằng Thành chung (DEPSI) nhưng vì hoàn cảnh, ông phải nghỉ học, dốc tâm tự học, gầy dựng một vốn tri thức phong phú và hấp thụ tư tưởng cách mạng qua cách sách báo tiến bộ xuất bản trong và ngoài nước.

        Tiếp tục truyền thống yêu nước của gia tộc và quê hương Cao Lãnh, ông sớm giác ngộ cách mạng, tham gia hoạt động Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (1927), Đảng Cộng sản Việt Nam (1930), trở thành thành viên tích cực trong Mặt trận Việt Minh. Trước Tổng khởi nghĩa, ông phục vụ ở Tổng uỷ An Thạnh Thượng, xã Mỹ An Hưng (Cái Tàu Thượng), kề vai sát cánh cùng đồng bào, đồng chí đấu tranh anh dũng kiên cường chống thực dân Pháp đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công.

        Ngày Nam Bộ kháng chiến bùng nổ (23/9/1945), ông giữ chức vụ Trưởng Quốc gia Tự vệ cuộc (Công an) tỉnh Sa Đéc. Sau đó, ông được điều động và phân công lãnh đạo lực lượng Công an miền Trung Nam Bộ, phụ trách công tác ở Sở Công an Nam Bộ (đồng chí Phạm Hùng làm giám đốc), cho đến ngày Hiệp định Geneve được ký kết (20/7/1954).

        Theo tinh thần Hiệp định Geneve, ông xuống tàu ở Cà Mau tập kết ra Bắc. Ông là người con Cao Lãnh được Đảng ưu ái, tín nhiệm cử làm thư ký riêng cho Bác Hồ.

        Khoảng năm 1963, do nhu cầu công tác, ông chuyển ngành, giữ cương vị Phó Vụ trưởng rồi Vụ trưởng Vụ Pháp chế Phủ Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới thời Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

        Sau đại thắng mùa Xuân 30/4/1975, ông hồi kết phụ trách công tác Pháp chế Phủ Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, cho đến ngày nghỉ hưu tại Thành phố Hồ chí Minh.

        Ông có 12 anh trai, trong đó 3 người tham gia cách mạng: Lê Văn Tự (thứ 3), tham gia từ năm 1930, bị giặc lưu đày biệt xứ, đến Cách mạng Tháng Tám 1945 được giải thoát, Lê Văn Cảnh (thứ 10), thường gọi giáo Cảnh, tham gia từ năm 1927, hy sinh năm 1952, có hai con trai cũng là liệt sỹ (Lê Minh Lý, Lê Hùng Thanh) và Lê Văn Nhạc ( thứ 12), tham gia từ năm 1927, hy sinh ngày 06/3/1946.

        Ông Lê Văn Cử mất năm 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh, để lại cho đời tấm gương sống đẹp vì lý tưởng cách mạng, trung với Đảng, hiếu với dân. Tên ông được đặt cho một con đường ở phường Hoà Thuận, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Phạm Hữu Lầu

Nguyễn Thị Lựu

Nguyễn Văn Linh (Thống Linh)