Nguyễn Quang Diêu tự là Tử Ngọc, hiệu là Cảnh Sơn (hay Nam Sơn)
Ông Nguyễn Quang Diêu sinh năm Canh Thìn (1880), tự là Tử Ngọc, hiệu là Cảnh Sơn (hay Nam Sơn), người làng Tân Thuận, tổng An Tịnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Ông nội và cha ông là những người có tiếng về Nho học, nên ngay từ thuở nhỏ ông được chăm sóc giáo dục chu đáo. Năm lên 6 tuổi ông học chữ Nho, năm 10 tuổi học chữ Quốc ngữ. Năm 15 tuổi, ông lại học chữ Nho với cụ Tú Tịnh, sau đó đến Phú Thuận (Châu Đốc, nay thuộc Hồng Ngự - Đồng Tháp) tiếp tục học với cụ Tú Trần Hữu Thường, một nhà Nho yêu nước. Chính cụ Tú Thường là người làm cho Nguyễn Quang Diêu sớm thấy được cái nhục mất nước. Do đó, mặc dù tuổi nhỏ lại đang phải học hành, nhưng ông vẫn thường xuyên theo dõi tình hình phong trào yêu nước kháng Pháp trong cả nước. Năm 1907, ông tham gia phong trào Đông Du với tư cách cổ động viên, vận động thanh niên sang Nhật du học, quyên góp ủng hộ phong trào. Ông góp phần đưa vùng Cao Lãnh trở thành một trong những nơi có phong trào Đông Du mạnh ở miền Nam.
Năm 1908, phong trào tan rã, du học sinh bị trục xuất về nước, ông bị thực dân giam cầm một thời gian mới trả tự do, song bị an trí. Ông tìm cách liên hệ với Đặng Thúc Liêng ở Sa Đéc, Nguyễn Thần Hiến ở Cần Thơ, Bùi Chí Nhuận ở Tân An, Cả Trận ở Mỹ Tho…, những cựu du học sinh Đông Du bị trục xuất (Lê Văn Đáng ở Cao Lãnh) và các yếu nhân của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục đang bị an trí ở Sa Đéc (Võ Hoành, Dương Bá Trạc…) để xây dựng lại phong trào ở địa phương.
Nhân Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc thành công (1911), nhà ái quốc Phan Bội Châu lập Việt Nam Quang phục Hội ở Trung Quốc (tháng 5/1912), Hội cho người về móc nối với cơ sở trong nước. Cường Để về Nam Kỳ, Nguyễn Quang Diêu tiếp xúc với Cường Để tại một địa điểm bí mật ở Long Xuyên (An Giang) để nhận nhiệm vụ. Tháng 5/1913, ông cầm đầu một phái đoàn gồm có Đinh Hữu Thuật và 10 người khác với hai thiếu niên qua Hồng Kông hoạt động. Vừa đến nơi, tất cả đều bị thực dân Pháp bắt giải về giam ở Hoả Lò (Hà Nội), rồi đày sang đảo Guyane (Nam Mỹ). Năm 1917, ông vượt ngục trốn sang đảo Trinidad (thuộc địa Anh) giả dạng làm người Trung Quốc. Năm 1920, Nguyễn Quang Diêu sang Washington (Mỹ) rồi về Trung Quốc, Hồng Kông tìm cách bắt liên lạc với các nhà cách mạng Việt Nam ở hải ngoại.
Suốt 6 năm sống và hoạt động ở Trung Quốc, ông theo con đường cách mạng tư sản do Phan Bội Châu vạch ra. Trong thời gian này, Nguyễn Quang Diêu thấy rõ những hạn chế của các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ ở Trung Quốc và còn thấu hiểu được tình hình cách mạng nước này kể từ khi Đảng Cộng sản ra đời năm 1921.
Cuối năm 1926, ông bí mật về hoạt động trong nước. Sau một thời gian ở Sài Gòn, ông về Sa Đéc (nay là Đồng Tháp) vào đầu năm 1927, được sự hỗ trợ nhiệt tình của hai ông Võ Hoành và Phó bảng Nguyễn Sanh Huy (Nguyễn Sinh Sắc). Từ đây, với tư cách người tù khổ sai vượt ngục, ông vẫn hăng say hoạt động, phải đổi tên nhiều lần (Nam Xương, Trần Văn Vẹn…) và cải trang để đi hoạt động. Các tỉnh miền Tây, nhất là Cao Lãnh, Tân Châu, Hồng Ngự, Châu Đốc,… là những địa phương ông thường lui tới tuyên truyền giáo dục quần chúng và tạo được nhiều cơ sở cách mạng. Năm 1930, được một số hương chức làng Vĩnh Hoà (Tân Châu) giúp đỡ, ông mở trường dạy học ở đây. Đa số học trò của ông đều tham gia cách mạng, trong đó có nhiều người trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, giữ vai trò lãnh đạo trong Cách mạng Tháng Tám 1945 và về sau ở hai tỉnh An Giang, Đồng Tháp.
Ngày 15/5 năm Canh Tý (1936), ông bị bệnh qua đời trong sự im lặng của một “tội phạm chánh trị vượt ngục”, được đồng bào, đồng chí và môn sinh an táng tại làng Vĩnh Hoà (năm 1989 được cải táng ở quê nhà). Một đồng chí có câu đối điếu cụ:
Ngót hai chục năm dư, hồ hải từ Âu, Á, Mỹ;
Vừa năm mươi tuổi lẻ, dạ đài còn tạc Hiếu, Trung, Cang.
Ông để lại một khối lượng lớn tác phẩm thơ, góp phần không nhỏ vào kho tàng văn học yêu nước Việt Nam thời cận đại, đánh dấu bước ngoặt tư tưởng trong cách mạng nước ta những thập niên đầu thế kỷ XX. Công lao lớn của ông là giác ngộ một số quần chúng nông dân, nhất là thanh niên đi từ chủ nghĩa yêu nước chân chính chuyển sang chủ nghĩa yêu nước có xu hướng xã hội chủ nghĩa.
Tên ông được đặt cho một con đường và trường trung học phổ thông chuyên ở thành phố Cao Lãnh, một trường phổ thông cơ sở ở Giồng Găng (xã An Phước, huyện Tân Hồng) và tên giải thưởng Văn học - Nghệ thuật tỉnh Đồng Tháp. Ngoài ra, tên ông còn được đặt cho trường trung học phổ thông ở xã Tân An, huyện Tân Châu, tỉnh An Giang
Khu mộ ông bà được xây dựng mới khang trang tại ấp Tân Chủ, xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp và được công nhận Di tích lịch sử cấp tỉnh. Lễ giỗ của ông được tổ chức vào ngày 15/5 Âm lịch hằng năm và trở thành Lễ hội văn hoá cấp thành phố.
Nhận xét
Đăng nhận xét